Quan điểm Cây trồng biến đổi gen

Tính đến năm 2050, ước tính dân số sẽ chạm mốc 9 tỷ người. Theo Uỷ ban Nông Lương Liên hợp quốc, điều này có nghĩa là lượng thực phẩm cần sản xuất để đáp ứng nhu cầu cho toàn cầu trong giai đoạn 2000–2050 tương đương với tổng lương thực cần trong 10.000 năm trước đây, trong khi diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng thu hẹp, biến đổi khí hậu gay gắt trên toàn cầu.

Báo cáo của FAO về Hiện trạng Thực phẩm và Nông nghiệp năm 2016 đã chỉ rõ: “Công nghệ sinh học dù ở trình độ cao hay thấp đều có thể giúp các nhà sản xuất đặc biệt nông hộ quy mô nhỏ có thể linh hoạt và ứng phó tốt hơn với các thách thức đến từ biến đổi khí hậu. Trong khi những phương pháp phụ chủ yếu thông qua đổi mới về các biện pháp quản lý; một trong số các phương pháp khác có thể phụ thuộc vào kết quả của việc ứng dụng công nghệ sinh học ví dụ như cải thiện giống cây trồng.”

Tiến sỹ Graham Brookes - Giám đốc PG Economics và đồng tác giả trong nghiên cứu về tác động môi trường và kinh tế - xã hội chia sẻ: “Nguy cơ mất an ninh lương thực toàn cầu là một vấn đề lớn tại các quốc gia đang phát triển, với khoảng 108 triệu người hiện vẫn đang bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng lương thực. Trong hơn 20 năm, chúng ta đã chứng kiến việc ứng dụng CNSH cây trồng tại các nước đang phát triển đóng góp như thế nào vào việc cải thiện năng suất, giúp sản xuất an toàn hơn, tăng thu thập cho nông dân, góp phần giảm đói nghèo và suy dinh dưỡng tại các khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi mất an ninh thực nhất trên thế giới.”

Nghiên cứu của PG Economics cũng cho thấy các bước tiến lớn đã được thực hiện nhằm giảm bớt tác động môi trường từ canh tác nông nghiệp, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghiên cứu mới nhất nhấn mạnh việc sử dụng CNSH trong nông nghiệp tiếp tục góp phần giảm phát thải khí nhà kính [39]

  • Việc mở rộng diện tích ứng dụng CNSH đã đồng thời giúp cải thiện tình trạng sụt giảm dinh dưỡng trên cây trồng nhờ đưa vào các tính trạng dinh dưỡng có lợi. Ngoài ra, giá trị dinh dưỡng cây trồng cũng có thể được cải thiện khi thêm vào các tính trạng dinh dưỡng có lợi trên gạo, chuối, khoai tây, lúa mỳ, đậu gà, đậu triều và mù tạt, từ đó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và các nhà sản xuất thực phẩm. Các nghiên cứu cho thấy biến đổi khí hậu có thể dẫn tới sụt giảm hàm lượng protein, kẽm và sắt trong các cây trồng chủ lực - đặt 1,4 triệu trẻ em vào nguy cơ thiếu sắt nghiêm trọng vào năm 2050.
  • Báo cáo năm 2017 của ISAAA cũng cho thấy có nhiều hơn những sản phẩm CNSH được thương mại hóa với những lợi ích trực tiếp đối với người tiêu dùng. Hai thế hệ khoai tây Innate®  đã được cấp phép tại Mỹ và Canada: một với tính trạng giảm thâm và chống đốm nâu cùng hàm lượng acrylamide thấp, và một với các tính trạng nói trên kết hợp cùng mức độ đường khử thấp và kháng bệnh mốc sương; giống táo không thâm Arctic® tại Mỹ và giống cà tím kháng sâu tại Bangladesh. Đây đều là những sản phẩm mang lại lợi ích bền vững hơn cho người tiêu cùng cũng như cho môi trường.[23]
  • Trong tổng lợi ích thu nhập canh tác, 49% (tương đương với 48 tỷ USD) có được nhờ năng suất thu hoạch cao hơn do giảm sâu hại, áp lực về cỏ dại và hệ gen được cải thiện, còn lại nhờ việc giảm thiểu chi phí canh tác.
  • Phần lớn (51%) thu nhập từ canh tác năm 2011 đã đến trực tiếp với người nông dân của các quốc gia đang phát triển, 90% của nhóm này là những nông hộ nhỏ và nghèo. Tổng cộng từ năm 1996 - 2011, khoảng 50% tổng lợi ích thu về đã đến được với nông dân ở các quốc gia đã và đang phát triển.
  • Báo cáo ISAAA cho thấy diện tích canh tác cây trồng BĐG toàn cầu đã tăng lên 3%, tương đương với 4,7 triệu héc ta vào năm 2017. Khi ngày càng nhiều các quốc gia đang phát triển mở rộng diện tích canh tác cây trồng BĐG và tạo điều kiện cho nông dân ứng dụng CNSH trong sản xuất thực phẩm, lợi ích được của CNSH được thể hiện rõ rệt đối với các nông hộ nhỏ. Trên thực tế, các nước đang phát triển hiện chiếm 53% diện tích canh tác cây trồng BĐG trên toàn cầu.[23]
  • Theo báo cáo của PG Economics, từ năm 1996 – 2016 cây trồng BĐG đã mang về 186,1 tỷ đô la, cho khoảng 17 triệu nông dân trên toàn cầu, rất nhiều trong số đó là phụ nữ và các nông hộ nhỏ - lực lượng chịu trách nhiệm nuôi sống toàn gia đình và cộng đồng nơi họ sinh sống.
  • Cây trồng công nghệ sinh học có khả năng chống chịu với thuốc trừ cỏ không chỉ làm giảm việc dùng thuốc diệt cỏ mà còn làm cho đất và nước sạch hơn, thúc đẩy việc áp dụng phương pháp canh tác không làm đất để giảm thiểu sự xói mòn đất và hiện tượng thải ra carbon làm biến đổi khí hậu vào khí quyển. Theo tính toán của Hội đồng Khoa Học Nông nghiệp và Công nghệ (CAST) cho rằng công nghệ mới như bắp và đậu nành có hàm lượng acid phytic thấp có thể giúp giảm nitơ và bài tiết  phospho ở heo và gia cầm  tương ứng 40% và 60%. Hệ thống tiêu hóa của bò được cải thiện có thể làm giảm bài tiết nitơ lên đến 34%, và giảm bài tiết phosphor đến 50%.
  • Cây trồng CNSH góp phần giảm hiệu ứng nhà kính từ quá trình canh tác nhờ việc giảm lượng năng lượng sử dụng, tăng lượng cacbon lưu trữ trong đất nhờ giảm việc làm đất. Điều này tương ứng với việc trong năm 2011, hơn 23 tỷ kg cacbon dioxit đã được ngăn ngừa không bị thải vào môi trường (lượng khí thải giảm thiểu tương đương với việc "chặn" thành công 10,2 triệu xe ô tô lưu thông trên đường trong 1 năm).
  • GSTS Lê Huy Hàm, Viện trưởng Viện di truyền nông nghiệp, nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực di truyền khẳng định: “Nói về kiểm soát độ an toàn, có thể nói là hệ thống kiểm soát an toàn sinh học sản phẩm biến đổi gen hiện nay ở Việt Nam hoạt động khá hiệu quả. Đó là quy chế sản phẩm biến đổi gen chỉ được sử dụng ở Việt Nam sau khi đã được sử dụng ở 5 nước phát triển với cùng mục đích. Do đó, người tiêu dùng có thể tin rằng tất cả các sản phẩm biến đổi gen được nhập khẩu về Việt Nam đều đã được các nước như Hoa Kỳ, Nhật, Canada, Australia, Hàn Quốc, EU… sử dụng với cùng mục đích. Ngoài ra, tất cả các quyết định liên quan đến sử dụng, sản xuất sản phẩm biến đổi gen ở Việt Nam đều có sự tham gia của đại diện 5 Bộ: Khoa Học Công Nghệ, Y Tế, Nông Nghiệp, Công Thương, Tài Nguyên Môi Trường và Viện Hàn Lâm Khoa Học Công Nghệ Việt Nam. Mọi khía cạnh đều được cân nhắc rất kỹ trước khi đưa ra quyết định” [40]
  • Năm 2011, một báo cáo với tên gọi "10 năm nghiên cứu Sinh vật Biến đổi gen" được bảo trợ bởi Cộng đồng chung Châu Âu (EU) với nguồn kinh phí khoảng 200 triệu Euro được xuất bản. Đây là một báo cáo toàn diện, cung cấp thêm thông tin cho những tranh cãi liên quan đến vấn đề BĐG khi các kết quả khoa học và nghiên cứu đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền được công bố. Trong suốt hơn 25 năm qua, có khoảng 500 nhóm nghiên cứu độc lập đã tham gia vào dự án này. Theo kết quả của dự án, tính đến thời điểm hiện tại, KHÔNG có bất cứ bằng chứng khoa học cho thấy mối liên hệ giữa sinh vật BĐG với những rủi ro lớn hơn đối với môi trường, và sự an toàn của thực phẩm, thức ăn chăn nuôi so với các sinh vật và cây trồng truyền thống.[41][42][43]
  • Vào năm 2016, hơn 100 học giả đoạt giải Nobel đã cùng ký bức thư ngỏ kêu gọi Tổ chức Greenpeace (Hoà bình xanh) thay đổi quan điểm, ngưng các hoạt động phản đối thực phẩm biến đổi gen (BĐG). Bức thư có viết: “Chúng tôi kêu gọi Greenpeace nhanh chóng tái đánh giá những trải nghiệm của nông dân và người tiêu dùng trên toàn thế giới về những cây trồng, thực phẩm được cải tiến bởi công nghệ sinh học, công nhận những phát hiện nghiên cứu của các tổ chức khoa học có thẩm quyền và cơ quan chức năng, và ngừng chiến dịch chống lại cây trồng BĐG (GMO) nói chung và giống lúa/gạo Vàng (Golden rice) nói riêng”.
  • Bức thư cũng đề cập: “Các tổ chức khoa học và cơ quan chức năng trên thế giới liên tục khẳng định chắc chắn sự an toàn của cây trồng và thực phẩm có sự can thiệp của công nghệ sinh học, nếu không muốn nói là an toàn hơn bất cứ phương pháp nuôi trồng nào khác. Đến nay, chưa có bất kỳ trường hợp được xác thực nào xác minh những hệ quả xấu cho sức khoẻ từ việc tiêu thụ sản phẩm BĐG của người và động vật. Cả vấn đề môi trường, cây trồng BĐG cũng được chứng minh rất ít gây ảnh hưởng tiêu cực, không những thế còn đóng góp lợi ích vào hệ sinh thái đa dạng toàn cầu”.[44][45][46][47]
  • Báo cáo "Mức độ phổ biến và tác động của thức ăn chăn nuôi biến đổi gen lên động vật" xuất bản vào năm 2014 đã dựa trên các dữ liệu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) trên hơn 100 tỉ động vật được nuôi bằng thức ăn có thành phần từ cây trồng biến đổi gen, kết luận: không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cây trồng biến đổi gen gây tác động tiêu cực đối với sức khỏe vật nuôi.[48]
  • Tất cả các nước đang phát triển[27] đã được hưởng lợi từ công nghệ sinh học thông qua việc nhập khẩu hàng hóa rẻ hơn, mức độ độc tố mycotoxin thấp hơn và năng suất cây trồng cao hơn và sạch hơn để trồng trong nước. Các nước đã phát triển cây trồng công nghệ sinh học cũng được hưởng lợi từ việc giảm sử dụng hóa chất, năng suất cao hơn và nông nghiệp mang tính cạnh tranh hơn, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp biến đổi gen mang một nguồn thu ổn định và giải quyết vấn đề việc làm cho một bộ phận lớn người dân các nước này. Người nông dân tại các quốc gia đang phát triển chính là đối tượng thụ hưởng lợi của những ích lợi đang ngày càng gia tăng này. Môi trường cũng được bảo vệ tốt hơn nhờ việc nông dân ngày càng áp dụng phương pháp canh tác ít ảnh hưởng đến lớp đất phủ, quản lý cỏ dại bằng cách sử dụng các thuốc diệt cỏ lành tính và giảm thiểu lượng thuốc trừ sâu sử dụng nhờ ứng dụng cây trồng biến đổi gen kháng sâu hại. Việc giảm phun thuốc trừ sâu và chuyển đổi sang phương thức canh tác "không làm đất" ngày càng đóng vai trò tích cực trong giảm hiệu ứng nhà kính gây ra do canh tác nông nghiệp.
  • Có nhiều thông tin cho rằng, Châu Âu là nơi cấm thực phẩm biến đổi gen. Tuy nhiên trên thực tế, Châu Âu là nơi vừa cho phép sử dụng các sản phẩm biến đổi gen, vừa cho phép canh tác một số cây trồng biến đổi gen. Châu Âu có một hệ thống pháp luật quy định việc nhập khẩu, phát triển và thương mại hóa các loại cây trồng và thực phẩm công nghệ sinh học/ cây trồng biến đổi gen. Mỗi năm châu lục này đang nhập hơn 30 triệu tấn đậu nành công nghệ sinh học từ Mỹ và Nam Mỹ để sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh đó, Tây Ban Nha là một nước đã canh tác ngô biến đổi gen hơn 20 năm qua.[49]

Bên cạnh những lợi ích cơ bản của cây trồng biến đổi gen, theo một vài nhà khoa học thế giới, thì loại thực phẩm này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe cộng đồng, môi trường.[50]

Đối với môi trường:

  • Cây trồng biến đổi gen mang các yếu tố chọn lọc (chịu lạnh, hạn, mặn hay kháng sâu bệnh…) phát triển tràn lan trong quần thể thực vật. Có một số quan ngại cho rằng điều này có thể dẫn đến mất cân bằng hệ sinh thái và làm giảm tính đa dạng sinh học của loài cây được chuyển gen. Tuy nhiên cho tới nay không có bằng chứng cho thấy cây trồng biến đổi gen là "nguy hại" hơn đối với môi trường và cân bằng sinh thái, so với cây trồng tryền thống hoặc cây trồng hữu cơ. Một nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà khoa học nhà khoa học Tony Conner và Glare Travis người New Zealand và Jan-Peter Nap người Hà Lan đã xem xét 250 tài liệu nghiên cứu đã công bố về một loạt các tác động lên môi trường, về “quá trình tạo cỏ dại”, về quá trình chuyển dòng gen ngang, sinh thái học, đa dạng sinh học và các mối quan tâm khác về công nghệ gen, họ đã kết luận rằng nhiều vấn đề được đặt ra phản bác cây trồng công nghệ sinh học thực ra không tồn tại, và những vấn đề đó đều có thể diễn ra như nhau ở cây trồng truyền thống và cả cây trồng hữu cơ.[51][52]
  • Cây trồng biến đổi gen mang các gen kháng thuốc diệt cỏ có thể thụ phấn với các cây dại cùng loài hay có họ hàng gần gũi, làm lây lan gen kháng thuốc diệt cỏ trong quần thể thực vật. Việc gieo trồng cây trồng biến đổi gen kháng sâu bệnh trên diện rộng, ví dụ, kháng sâu đục thân, có thể làm phát sinh các loại sâu đục thân mới kháng các loại cây trồng biến đổi gen này. Việc sử dụng thuốc trừ sâu sinh học Bt đã cho phép phòng trừ hiệu quả sâu bệnh, nhưng sau 30 năm sử dụng, một số loại sâu bệnh đã trở nên nhờn thuốc ở một vài nơi
  • Ngoài ra, một bộ phận các nhà khoa học lo ngại đến khả năng chuyển gen từ cây trồng vào các vi khuẩn trong đất. Tuy nhiên, khả năng xảy ra điều này là vô cùng nhỏ. Hiện nay, các chuyên gia CNSH đang cố gắng giảm thiểu các rủi ro nêu trên và theo dõi cẩn thận các thử nghiệm cây trồng biến đổi gen trong phòng thí nghiệm, cũng như ngoài đồng ruộng trước khi đưa ra thị trường thương mại. Nếu được thiết kế và sử dụng đúng phương pháp thì có thể quản lý được các nguy cơ của cây trồng biến đổi gen đối với môi trường một cách hiệu quả.

Ngoài ra, cũng theo nhiều chuyên gia, nếu trồng đại trà thực phẩm biến đổi gene thì một số lợi ích kinh tế có thể bị nguy hại, như người nông dân bị ép giá do lệ thuộc vào các công ty cung ứng giống, môi trường nông nghiệp bị biến đổi, những công ty xuyên quốc gia trong lĩnh vực này đang sử dụng giống biến đổi gen, khiến cho nông dân ngày càng phụ thuộc vào họ để đạt mục tiêu lợi nhuận [53]

Có nhiều thông tin cho rằng, Châu Âu là nơi cấm thực phẩm biến đổi gen. Tuy nhiên trên thực tế, Châu Âu là nơi vừa cho phép sử dụng các sản phẩm biến đổi gen, vừa cho phép canh tác một số cây trồng biến đổi gen.[24][54][55][56][57]

Châu Âu có một hệ thống pháp luật quy định việc nhập khẩu, phát triển và thương mại hóa các loại cây trồng và thực phẩm công nghệ sinh học/ cây trồng biến đổi gen. Mỗi năm châu lục này đang nhập hơn 30 triệu tấn đậu nành công nghệ sinh học từ Mỹ và Nam Mỹ để sử dụng làm thực phẩm và thức ăn chăn nuôi.[26][29]

Bên cạnh đó, Tây Ban Nha là một nước đã canh tác ngô biến đổi gen hơn 20 năm qua.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cây trồng biến đổi gen http://www.soygrowers.com/ctstudy/Default.htm http://allianceforscience.cornell.edu/blog/major-u... http://croplifevietnam.org/?p=1207/ http://croplifevietnam.org/?page_id=1209/ http://www.goldenrice.org http://www.isaaa.org/kc/cropbiotechupdate/article/... http://antoansinhhoc.vn/Noi-dung/Bo-TNMT-cap-Giay-... http://antoansinhhoc.vn/tra-cuu-gmo-2/ http://antoansinhhoc.vn/uy-ban-chau-au-cap-phep-sa... http://baodautu.vn/ngo-bien-doi-gen-dau-tien-viet-...